Nguyễn Hữu Nghĩa: Về Cuộc Chiến Biên Giới Việt – Hoa 1979

Tháng 2.1979, Trung Cộng xua 600 ngàn quân xâm lăng biên giới Bắc Việt, chuyện đó cả thế giới biết dù Đảng và Nhà Nước VC ngày nay ra sức bưng bít.

Không cần nói nhiều về trận chiến vì tài liệu và lời bình đầy dẫy trên mạng thông tin, tôi chú ý vào một số chi tiết, tuy nhỏ nhưng lại là yếu tố chiến lược khiến Trung Cộng phải giới hạn cuộc tấn công và rút quân đúng thời hạn y như đã báo trước.

Về phía Mỹ, ngày 1.1.1979, lần đầu tiên chính thức công du sang Hoa Thịnh Đốn, Đặng Tiểu Bình nói với TT Jimmy Carter: 小朋友不听话,该打打屁股了(tiểu bằng hữu bất thính thoại, cai đả đả thí cổ; nghĩa đen: thằng bạn nhỏ bảo không nghe, đã đến lúc phải đét đít nó), thông dịch viên của Đặng dịch là “The little child is getting naughty, it’s time he get spanked” (Thằng oắt con ngỗ nghịch, nó sẽ bị đánh đòn). Tổng thống Mỹ im lặng, không phụ họa cũng không phản đối. Tất nhiên là Mỹ sẽ không can thiệp, y như năm 1974, Mỹ đã án binh bất động, không cả giúp tải thương khi hải quân VNCH đối đầu với lực lượng Trung Cộng đánh chiếm Hoàng sa.

Về phía Liên Sô, trong thời gian đó, Trung Cộng dồn phân nửa lực lượng chính qui án ngữ tất cả các cứ điểm chiến lược dọc theo biên giới Liên Sô và cho di tản 300 ngàn dân khỏi vùng biên giới. Ngày 15.2.1979, Trung Cộng bắn tiếng có thể chính thức chấm dứt “50 năm hữu nghị” với Liên Sô, đồng thời xác định sẽ “tấn công có giới hạn” vào lãnh thổ Việt Nam. Lập tức Liên Sô cho dồn thêm quân vào biên giới Trung Cộng và Mông Cổ, đồng thời ra lệnh một số hạm đội chuyển hướng tiến về vịnh Bắc Việt và chuẩn bị các phi cơ quân sự vào việc giúp CSVN chuyển quân và tiếp liệu, trong đó có 50 bệ phóng hỏa tiễn BM-21, 400 hỏa tiễn địa-không, 800 hỏa tiễn chống xe tăng và 20 máy bay phản lực.

Phản ứng cấp thời của Liên Sô khiến Trung Cộng dè chừng, chỉ dùng bộ binh trong cuộc xâm lăng, còn không quân và hải quân vào thành phần dự bị. Mặt khác, lúc đó chiến tranh mới chấm dứt, quân lực CSVN hãy còn thiện chiến trong khi lính Trung Cộng không có kinh nghiệm đánh nhau; đồng thời lực lượng phòng không của CS Bắc Việt thời đó rất đáng cho Bắc Kinh gờm tránh.

Khi chiến cuộc diễn ra, các tỉnh biên giới phía Bắc VN chỉ có dân quân nhưng cũng đã tạm thời cầm chân được nhiều cánh quân Trung Cộng; và Liên Sô đã cho phi cơ giúp CSVN chuyển các đơn vị chính qui từ chiến trường Cao Miên bay về chống cự và lập vòng đai phòng thủ Hà Nội. Liên Sô cũng cho chuyển gấp 8000 cố vấn quân sự bay sang Việt Nam để quan sát và huấn luyện, và dùng các chiến hạm vít kín vịnh Bắc Việt trong các ngày sau đó.

Hai lý do chính khiến Liên Sô không làm gì hơn mức đó vì không có đường trực tiếp chuyển quân sang VN mà phải bay vòng, tránh các nước đồng minh với Mỹ hoặc Trung Cộng; và vì lời cam kết “tấn công có giới hạn, rút quân có thời hạn” của Bắc Kinh. Mạc Tư Khoa chỉ ra lệnh tập trung quân và “chờ xem.”

Hai lý do chính khiến Đặng Tiểu Bình phải giữ đúng lời cam kết là vì phản ứng khá quyết liệt của Liên Sô và vì sức kháng cự của “thằng oắt con ngỗ nghịch” CSVN. Nó “ngỗ nghịch” trên mức họ Đặng có thể cân nhắc!

Trung Cộng rút quân, nhưng cuộc tranh biên giới vẫn âm ỉ cho đến hơn 10 năm sau, khi quân lực CSVN già đi, yếu dần, nạn tham nhũng lan tràn, tinh thần Bộ Chính trị bại liệt, rồi cuối cùng kết thúc bằng hội nghị Thành Đô, cắt nhường đất biên giới, đặc biệt là các vùng có địa hình hiểm trở mà bộ binh Trung Cộng không tiến nổi trong khi VC chỉ có dân quân phòng ngự, việc nhường các quần đảo Hoàng sa, Trường sa và vịnh Bắc Việt.

Nhưng, thời điểm cuối cùng của cuộc chiến tranh biên giới 1979 chính là mật ước 2020.

Chỉ còn 2 năm nữa thôi, liệu Việt Nam còn đó, hay trở thành ngôi sao thứ sáu trên lá cờ Trung Cộng, hoặc không có ngôi sao nào cả mà chỉ được là một bãi rác kỹ nghệ ở phương Nam? Vận mệnh đất nước nằm trong tay toàn dân mà giới trẻ là thành phần chủ động. Giới trẻ bao gồm những thanh niên áo lục, áo xanh, áo vàng và nhất là thanh niên áo trắng, những người không có vũ khí, nhưng có ý chí và lòng yêu nước