Hoàng Long Hải – “Sức mạnh Phù Đổng”

Người bạn cũ hỏi tôi:
-“Ông” thấy tuyêt vọng sao? Cộng Sản cai trị “Hồ Chí Minh muôn năm” sao?
-“Tôi thấy tuyệt vọng thật! Thế lực nào bây giờ có thể làm “suy suyển” được họ.” Tôi nói.
-“Tôi không nghĩ như “ông”. Không có gì tồn tại mãi mãi, nhất là các chế độ độc tài.” Bạn tôi nói.
-“Nói như thế thì tôi đồng ý. Hiện tại thì thấy khó lắm. Chính ngay Kennedy, khi làm tổng thống Mỹ cũng thấy khó làm chi được Liên Xô, đành phải bắt tay. Vụ U-2 nầy, vụ Khrushchev đập giày ầm ầm ở diễn đàn Liên Hợp Quốc, tổng thống Mỹ phải làm ngơ. Vậy mà tới thời Reagan thì Liên Xô đổ cái rầm. Từ 1960 tới 1990, tính ra chỉ có 30 năm, mấy việc đó không làm người ta ngạc nhiên sao? Hà Nội hơi sức bao lăm?!”
-“Chịu thôi bạn ơi! Mình đâu có con mắt nhìn xa thấy rộng!” Tôi nói.
-“Đồng bào hải ngoại thì sao?” Bạn tôi hỏi.
-“Vui lắm chớ sao! Cờ xí, biểu ngữ “hoành tráng” lắm. Oai nhất là mấy ông “thủ kỳ”, “hầu kỳ” đi lui đi tới, cải nhau ỏm tỏi nào là “dự lệnh”, “động lệnh” “dzui thật là dzui”!” Tôi cười, trả lời.
-“Họ làm gì được!” Bạn tôi than.
–“Làm chi cũng chẳng làm chi! Dẫu có làm gì cũng chẳng làm sao! Làm sao cũng chẳng làm sao! Dẫu có thế nào cũng chẳng làm chi!” Đọc đùa mấy câu thơ của Phan Khôi xong, tôi nói: “Tiểu tư sản mà bạn. Bản chất tiểu tư sản. Nói ra thì người ta tự ái, nhưng kẻ thù của chúng ta thì thấy chúng ta rõ lắm. Chúng nó đánh ta đòn nào đích đáng đòn đó. Còn chúng ta thì “hiệp sĩ mù”.
-“Nghe gió kiếm?” Bạn tôi hỏi.
-“Nghe được tiếng gió để đoán đường kiếm đi đã là may. Đằng nầy…Qua tới Mỹ rồi còn chưa sáng mắt.”
-“Tôi nóng ruột lắm. Hơn bốn mươi năm rồi còn gì! Nhiều khi không dám ra đường. Thấy người giàu có sang trọng, khoe khoang, phung phí… mình không tức cũng không được. Thấy người nghèo khổ, “cơm không có ăn, áo không có mặc” lòng mình trơ cứng được không?”
-“Người ta phải chấp nhận chớ! Xã hội Mỹ cũng bất công vậy!” Tôi phản bác ý kiến bạn.
-“Tôi chưa từng qua Mỹ, tôi không rõ. Nhưng tôi nghĩ sự bất bình đẳng hay cái gì đi nữa, cũng phải trong giới hạn tương đối. Tương đối mà thôi. Vượt quá tương đối thì mâu thuẫn nảy sinh, sẽ có đấu tranh, sẽ có cách mạng. Việt Nam bây giờ vượt quá tình trạng bất công thông thường nên phải có biến chuyển. Tôi nghĩ vậy.”
-“Ông bà xưa nói rồi. “Cùng tắc biến, biến tắc thông.” Chính quyền đẩy người dân đến “Cùng” thì ắt có “Biến”, “Biến” là dân chúng nổi lên, lật đổ chế độ. Hễ có “Biến” thì phải “Thông”. “Thông” là chế độ sụp đổ.” Tôi giải thích.
-“Cộng Sản chúng nó không biết cái nguyên lý đó hay sao?
-“Biết chớ!” Tôi nói. “Ở bên Mỹ, tôi thường gặp một người, một sĩ quan chế độ cũ. Anh ta thường nói “Cộng Sản nó ngu lắm! Cộng Sản nó ngu lắm”. Tôi cười thầm hoài. Có lần tôi nói: “Nó khôn lắm, không những khôn mà còn thủ đoạn nữa. Vì vậy nên mình mới vắt giò lên cổ mà chạy qua Mỹ. Không vượt biên thì cũng ngoan ngoản, cúi đầu mà lên máy bay… Sao mà chủ quan vậy. “Khinh địch là hửi địt” đó bạn. Cộng Sản không bao giờ để cho người dân “Cùng” để người dân phải “Biến” đâu. “Chủ nghĩa cách mạng khoa học” là ở chỗ đó vậy.”
-“Ông” nói không để cho người dân “Cùng” là sao?”
-“Hộ khẩu. Hộ khẩu là không để cho dân đói, nhưng không bao giờ được no. No thì “thừa cơm rửng mỡ” như tụi sinh viên thời ông Thiệu sao? “Từ đói ít đến đói nhiều” là được rồi, không thể no. “Công An và Hộ Khẩu”. Công An là “bạo lực cách mạng”. “Ông” nhớ như vậy.”
Một lúc, người bạn tôi nói tiếp: “Vụ Formosa, nửa triệu người lâm nạn, vậy mà không đứng lên được. Vậy thì bao giờ người dân mới “Vùng lên nhân dân Việt Nam anh hùng.”?
-“Phân hóa dân tộc”, “Chia để trị”. Hô hào thống nhứt. “Đảng đã thống nhất đất nước”, nhưng trong chính sách là phân hóa dân tộc. Làm như vậy là có tội với lịch sử!” Tôi kết luận.
-“Không phân hóa làm sao cai trị. Ba mươi tháng Tư, dân tộc Việt Nam có hai thành phần rõ ràng. Người Bắc vui mừng “chiến thắng “Mỹ ngụy”. Người lính miền Bắc sẽ được trở về sum họp với gia đình. “Chú bộ đội” chết mất tiêu hồi nào rồi mà gia đình, mẹ cha vẫn cứ hy vọng sum họp vì từ ngày “chú bộ đội đi B” tới giờ có thư từ liên lạc hay nhà nước thông báo sống chết gì đâu! Dù người lính không về, thì đời sống người dân miền Bắc cũng đỡ hơn, khá hơn, thậm chí giàu có hơn… Vậy họ không theo đảng, cám ơn đảng, cám ơn “bác” sao được. Bây giờ nhiều nhà đã có điện, có điện thoại, có tủ lạnh, bếp điện, có “đủ thứ”. So với “hồi chống Mỹ cứu nước” mỗi gia đình ở ngoài Bắc có gì. Bây giờ có gì thì họ phải “biết ơn đảng” chớ? Đó là cái “bóng ma đảng trùm lên đầu người Bắc.” Còn trong Nam, cái “bóng ma của đảng” có xa hơn, mờ nhạt hơn, nhưng nhờ hòa bình, dân chúng làm ăn được hơn, trai tráng không phải đi lính, “quân dịch quân gà”, điện nước, xe cộ về tận thôn ấp, dù họ không “ca câu cải lương” “nhờ ơn “bác”, nhờ ơn đảng” như ngoài Bắc thì họ cũng không còn muốn xã hội xáo trộn, không muốn chiến tranh.
Trong hoàn cảnh đó, cái người ta gọi là “Cùng” đã tới chưa? Tới hồi “kịch liệt” chưa? Ngày xưa, người dân quê khi tới “con đường chết” họ mới theo Nguyễn Hữu Cầu, theo “Quận He”, “quận Hẻo” bởi vì chính lúc đó, “theo giặc cũng chết, không theo giặc cũng chết.” Châu chấu phá mùa màng ba năm liên tiếp, đồng không còn một cọng lúa, châu cháu ăn hết, nên mới có “giặc châu chấu”. Lịch sử ghi “đê Văn Giang vỡ 18 năm liền”. Năm nào nước cũng vô trắng đồng, không có hột lúa, người dân không làm giặc sao được! Giặc thì như Nguyễn Hữu Cầu, “cướp của nhà giàu, chia cho người nghèo”. Dân theo giặc thì có ăn, không theo giặc thì chết đói. Không có nạn đói năm Ất Dậu, hai triệu người chết đói, làm sao có “Cách Mạng Tháng Tám”. Nhìn lại lịch sử, khi nào thì cái “Cùng”mới đến với dân để dân làm “Biến”. Người bạn tôi phân tích.
-“Theo bạn nghĩ, bây giờ lực lượng “phản kháng” là chỉ mới thành phần, chưa phải là tổng thể?” Tôi hỏi.
-“Bạn nói đúng. Thành phần là “dân oan”, thành phần là “Hòa Hảo”, thành phần là “Công giáo”, thành phần là “Chùa Liên Trì”. Tất cả các thành phần đó, chỉ là riêng rẽ, chưa kết hợp. Chưa kể đằng sau những thành phần đó, còn có những “lực cản”.
-“Lực cản là ai?” Tôi hỏi.
-“Về tôn giáo, lực cản là “tôn giáo quốc doanh”. Đằng sau linh mục Lý, linh mục Lợi, Tổng giám mục Ngô Quang Kiệt, lực cản từ La Mã. Đằng sau Chùa Liên Trì, ngoài Phật Giáo Quốc Doanh, còn Phật Giáo Già Lam, Phật Giáo Vĩnh Nghiêm. Người ta có đoàn kết được đâu?! Từ tù tội, khủng bố, bao vây, đe dọa quay sang lợi dụng, ve vản, hứa hẹn, mua chuộc, hủ hóa… là thủ đoạn của Cộng Sản. Mấy ông ấy chạy đường nào?! Ông Hòa Thượng Không Tánh trở thành “homeless”, Hòa Thượng Quảng Độ cũng “homeless” biết than với ai, hay chỉ than thầm cho số phận, số phận Đạo Pháp, số phận Dân Tộc???!!!
-“Theo anh nghĩ, tuy không đói, cái “Cùng” đó cũng sẽ tới không?” Tôi hỏi.
-“Sao lại không? “Ông” nhớ cho điều nầy. Cộng Sản Ba Lan sụp đổ không phải vì dân Ba Lan đói. Liên Xô tan rã, không phải vì dân Liên Xô không có ăn! Bức tường Bá Linh sụp đổ, không phải vì dân Đông Bá Linh hết bánh mì! Ngay chính Trung Cộng, sau những đợt “cải cách ruộng đất”, “diệt chim sẻ”, “Đại nhảy vọt”, “Cách mạng Văn hóa”, “Thiên An Môn” dân Tầu chết hàng vạn, 36 triệu mà có “đứng lên”, “đứng xuống” được đâu! Cộng Sản để cho dân đói mà không cho dân chết đói, không để cho dân tới cái “Cùng” để dân nổi loạn.”
-“Không vì đói?” Tôi hỏi.
-“Làm cho đói cũng có, không đói cũng có, nhưng không đứng lên được. “Thiên An Môn” là cuộc nổi dậy của thanh niên, sinh viên vì lý do chính trị, không vì kinh tế, rồi bị dẹp hoàn toàn.”
-“Không vì đói thì lý do gì?” Tôi lại hỏi.
-“Ông” phải hiểu những chính sách “đặc biệt” của Cộng Sản. Ví dụ: Một là “bưng bít”, hai là “ngu dân”.
-“Anh giải thích rõ hơn đi.” Tôi yêu cầu.
-“Trước hết, tôi nói về “bưng bít”. Trước 1975, báo chí quốc tế nói rằng “Bắc Việt là nơi kín nhất thế giới” phải không?” Tôi chưa kịp trả lời, người bạn nói tiếp. “Bưng bít, nội bất xuất, ngoại bất nhập” để làm gì? Trước hết là vì tuyên truyền. Hồi đó, trong Nam nầy, người ta nghe bộ Dân Vận/ Chiêu Hồi tuyên truyền, người ta bảo mấy thằng cha lãnh đạo trong bộ ngu hết chỗ nói. Tuyên truyền như thế mà ai nghe, vì người dân nhận được nhiều tin tức khác nhau qua nhiều đài phát thanh, báo chí khác nhau, nên người ta biết bộ Dân Vận/ Chiêu Hồi nói xạo, nói láo trơ trẻn. Người ta cười cho. Còn ngoài Bắc, “Đảng và Bác” nói gì, người ta tin ngơm ngớp. Người dân đâu có phương tiện thông tin gì để biết “Đảng va Bác” nói láo, phỉnh, gạt…Vì vậy nên khi “Chị Út Tịch” – con mẹ Út Tịch, dân Bến Tre, – nói trên đài Hà Nội, là người dân miền Nam bị “Mỹ Ngụy bóc lột” tàn tệ đến nỗi không có cái chén ăn cơm, phải dùng cái “muỗng dùa” thì tin ngơm ngớp. Nghe “Đảng” hô hào “Tất cả cho miền Nam” thì nhà có thằng con trai mới 16 tuổi cũng cho vô bộ đội đi Nam để “giải phóng miền Nam”. Người Bắc tin “đảng” thật đấy. Cái nầy, không cần nói nhiều, người ta biết cả rồi, nhưng người dân Bắc Kỳ không được quên!”
-“Quên gì?” Tôi hỏi.
-“Quên những giọt nước mắt của Dương Thu Hương! Những gịot nước mắt đó biểu tượng cho cái gì bạn biết không? Là uất hận, là tiếc nuối, chỉ chừng đó thôi, người ta đã thấy thương, thương Dương Thu Hương, thương những người bị lừa phỉnh, bị gạt gẫm, một tuổi trẻ của cô ta đầy gian khổ, tiêu tùng trong rừng già, núi thẳm mà vô ích, có ích cho ai? Đất Nước, Dân Tộc được gì? Xem lại, những người như cô ta, những người “xương trắng Trường Sơn” và cả những Mẹ, những Cha, những Chị ở ngoài Bắc hy sinh con em “dâng cho “Bác Đảng” để “giải phóng” đồng bào Miền Nam đều sai lầm cả. Một tuổi trẻ bị lừa phỉnh, một thế hệ thanh thiếu niên bị lừa phỉnh, một dân tộc bị lừa phỉnh… Bộ không đau đớn lắm hay sao?!
Bây giờ chuyện bưng bít đó không còn làm được nữa. Bây giờ là “phản tuyên truyền”, bây giờ là tỉnh thức, tỉnh táo – như Bùi Tín nói – Đó là sự thất bại của Cộng Sản.”
-“Chưa đủ để Cộng Sản sụp đổ?” Tôi hỏi.
-“Còn lâu!” Người bạn tôi vừa nói vừa cười. “Ông” nên nhớ, “Cộng Sản sau bức màn tre” bao giờ cũng đáng sợ, ghê gớm hơn “Cộng Sản sau bức màn sắt”. Nói như vậy tức là nói sự nổi dậy sau bức màn tre phải khó hơn sự nổi dậy sau bức màn sắt. Đúng không? Còn điều thứ hai nữa, điều cụ Phan Chu Trinh nói “Khai dân trí”. Không phải dân trí châu Á, hay dân tộc Việt Nam “ngu” hơn dân trí châu Âu? Đó là tôi nói thiệt. Từ mấy thế kỷ trước, người Châu Âu đã biết bình đẳng, bác ái, tự do… phát xuất từ “Thế Kỷ Ánh Sáng”. Còn như người Việt Nam, ngay như người miền Nam trước đây còn mù mờ về “Tam Quyền Phân Lập”, về “Tuyên Ngôn Độc Lập” của Mỹ, “Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền” của Cách Mạng 1789, “Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền” của Liên Hợp Quốc. Dân “Bắc Kỳ Cộng Sản” bị Cộng Sản bưng bít thì biết gì về những điều nầy để đòi hỏi.
“Người Âu Tây, dù sống dưới chế độ Cọng Sản, ít nhiều người ta cũng biết tới các “Tuyên Ngôn” đó để biết rằng bị tước đoạt cái gì. Vì vậy, người dân bên ấy dần dần thấy Cộng Sản có đem tới cơm áo đấy, nhưng người ta còn thấy “Cơm Áo Chưa Đủ”.
Dân Tàu, dân Bắc Vĩ Tuyến, bữa ăn có cơm, có cá, có thịt là mừng húm. Nhà có điện, có cái quạt máy Hitachi của Nhựt, có xe đạp, xe Honda là coi như đầy đủ quá rồi, “Cám ơn Bác và Đảng” quá rồi, đấu tranh chi nữa.”
-“Dân Châu Âu “sáng” hơn ta?” Tôi hỏi.
-“Đây là cái cụ Phan Chu Trinh bảo là “Khai Dân Trí” nhưng Việt Cộng thì “khai” theo kiểu Việt Cộng, còn châu Âu thì “khai theo kiểu châu Âu.”
-“Tôi chưa rõ!” Thiệt tình, tôi nói.
-“Như vầy nè!” Bạn tôi giải thích. “Nhờ “nền tảng” là “thế Kỷ Ánh Sáng” nên khi sống dưới chế độc Cộng Sản, người dân bên ấy thấy ngay họ cần Tự Do. Vì vậy, họ nắm bắt rất nhanh về “Hiệp Định Helsinki”, “Hiến Chương 77” rồi dần đi tới lật đổ Cộng Sản.
-“”Hiến Chương 77” là năm tôi ở trong “tù Cải Tạo” biết gì đâu!” Tôi than!
-Như thế nầy, tôi tóm tắt thôi nghe. Hội Nghị Helsinki về an ninh và hợp tác ở Châu Âu được tổ chức tại Helsinki, Phần Lan, vào tháng 8 năm 1975, sau khi “ông” vô tù rồi nên ông biết mẹ gì. Mỹ, Canada, và hầu hết các nước Châu Âu, tất cả là 35 nước, ký một tuyên bố chung nổ lực cải thiện quan hệ giữa các nước Cộng Sản và phương Tây. Đây là cái “bẫy của Tự Do” biết không? Cộng Sản đừng nên tiếp xúc với Tự Do, tiếp xúc là gặp nhau, trao đổi, là mở cửa thì từ chết tới bị thương. Tôi nói vậy là vì “Hiệp Định Helsinki” mở cửa cho phe Thế Giới Tự Do thọc bàn tay nhung vào Tiệp Khắc qua “Hiến Chương 77”, là lên án Tiệp Khắc “vi phạm nhân quyền”, Hiến Chương cũng hỗ trợ cho phe đối lập ở Tiệp luôn. Thế rồi cả một phong trào dậy lên, gồm nhà văn, thơ, trí thức, ca sĩ, có cả nhà văn nổi tiếng Václav Havel nữa. Rồi các “Đại Nhạc Hội” bùng lên, thu hút các ca nhạc sĩ độc lập và giới trẻ. Quan trọng là giới trẻ tham gia. Chính quyền đàn áp, bắt bớ. Phong trào lan qua Ba Lan, dẫn đến việc thành lập Công Đoàn Đoàn Kết, chính quyền Ba Lan sụp đổ…
Tôi muốn nói hai điều: Thứ nhất là điều bọn mình đã nói: “Nghệ sĩ, người ở đâu?” Câu hỏi đó, thứ nhất, là từ “Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm” ngoài Bắc với phong trào văn hóa, văn nghệ ở các nước Đông Âu, các chương trình “Đại Nhạc Hội” sau “Hiến Chương 77” của Châu Âu. Thứ hai, là điều báo chí Tây Phương gọi là “Nhát dao đâm thấu trái tim của khối Cộng Sản”, sau cuộc họp giữa Giáo Hoàng Giăng-Paul II và tổng thống Mỹ Regan vào ngày Chủ Nhật, 7 tháng 6 năm 1982, tại Thư Viện Tòa Thánh Vatican. Sau cuộc họp nầy, cả hai ông đều bị mưa sát nhưng không ai chết. Đó là “ân sủng” của Chúa, của Thượng Đế hay Ông Trời, ai tin gì cũng được, nhưng Thế Giới Cộng Sản sụp đổ là nhờ tình hình như thế đấy!”
-“Vậy là tôi hiểu. Đó là chính sách thứ nhứt của Cộng Sản: Bưng bít, không cho dân chúng biết gì về Thế Giới Tự Do, nôm na là tiếp xúc với các nước Tư Bản. Khi ở trong tù tôi có đọc một bản tin mà tôi nói với bạn bè đây là “cửa tử” của Ba Lan. Khi đó hình như chưa có Công Đoàn Đoàn Kết. Anh biết chuyện gì không? Ấy là chuyện lần đầu tiên, một ông Giáo Hoàng không phải người Ý được bầu, như “truyền thống” Giáo Hội La Mã. Giáo Hoàng Giăng-Paul II ngồi lên ghế ông Giăng-Paul I mói lên ngôi giáo hoàng vừa một tháng thì “Chúa gọi về”. “Ông Hoàng hai” là người Ba Lan, khi ông làm lễ đăng quang, gần nửa triệu người Ba Lan qua La Mã dự lễ. Người dân dưới chế độ Cộng Sản mà qua La Mã là qua với Tư Bản. Khi họ về lại nước họ, mỗi người là một cái loa tuyên truyền cho Tư Bản, một sức mạnh, một động lực thúc đẩy người khác bất mãn, chống đối chế độ. Cộng Sản Ba Lan không điêu đứng sao được, trong khi đó, 95 phần trăm dân Ba Lan có đạo Thiên Chúa. “Ông” thử nghĩ, có chết không?”
-“Chế độ Cộng Sản là chế độ bưng bít đã đành, nó còn là “chế độ đường một chiều”. Ai cũng phải một hướng mà đi tới, như con ngựa mang “dàm”. Giáo dục của họ là như vậy. Chỉ có một mục tiêu “Tính Đảng”. Cái gì “vô-tính-đảng” là loại bỏ. Đó là “cửa tử” thứ hai của Cọng Sản.”
-“Mở cửa, đổi mới, cho du học ở các nước tự do… là Cộng Sản rơi vào cái thế tự thắt cổ mình. Vậy mà tới bây giờ, người ta vẫn chưa thấy gì hết. Tình hình vẫn thế, bao giờ mới có tự do, bình đẳng để người dân có cơ hội kiếm được cơm no, áo ấm.” Tôi than.
-“Bây giờ có nhiều cái khôi hài lắm. Hồi trước họ mượn cái áo dân tộc để “chống Mỹ cứu nước” mà thực chất “Ta đánh đây là đánh cho Liên Xô, Trung Quốc”. Bây giờ thì mượn cái áo chủ nghĩa Mác để nắm chính quyền. Ở Việt Nam bây giờ mà Cọng Sản, Cộng Siếc gì nữa, chỉ là một tập thể câu kết với nhau để nắm quyền mà bảo vệ quyền lợi. Có thấy “anh” nào là “Cộng Sản chân chính, lý tưởng” đâu!
-“Dạy môn lịch sử, tôi có cái nhận xét nầy bạn à! Các chế độ độc tài Âu/ Á, xưa cũng như nay không giống nhau!” Tôi nói.
Bạn tôi đề nghị: “Nói thử coi!”
-“Nói “độc tài phong kiến” của vua chúa, “độc tài của Cộng Sản” chi cho xa xôi. Mình nói về các bạo chúa thôi. “Néron đốt thành Rome”, Hitler, Staline bên châu Âu, so với Tần Thủy Hoàng, Mao Trạch Đông bên Tàu, bọn họ khác nhau nhiều lắm. Trước hết là “tính khoa học”. Các chế độ độc tài ngày nay khoa học hơn các chế độ độc tài ngày xưa. Tính cách độc tài ngày nay cũng triệt để hơn độc tài ngày xưa. Độc tài kiểu Mao Trạch Đông kiệt xuất hơn các tay độc tài châu Âu, hơn cả Néron, hơn cả Tần Thủy Hoàng, tổ tiên của Mao. Xưa, Tần Thủy Hoàng nghe theo Lý Tư “đốt sách, chôn học trò” là “để thống nhứt tư tưởng của thiên hạ”. Nay Cộng Sản cũng vậy. Họ không hô hào “thống nhứt tư tưởng” như ngày xưa mà lại ngụy danh “triệt tiêu “văn hóa đồi trụy”, nghe có vẽ “chính nghĩa” hơn. Có phải không?”
-“Con hơn cha là nhà có phúc” mà bạn. Nói thêm đi, tôi cần “ông” giải thích!
-“Khi ở tù, bọn cán bộ “lên lớp” bọn tù chúng tôi thường nói câu “Chủ nghĩa Mác là chủ nghĩa khoa học”. Nói như con vẹt vậy thôi, không giải thích. Mình phải biết khoa học là cái gì chớ.”
-“Ông” hiểu sao?” Bạn tôi hỏi.
-“Khoa học có nhiều loại khác nhau, chẳng hạn như “Khoa hoc tự nhiên”, “khoa học vật lý”, “khoa học triết học”… Cái mà Cộng Sản nói ở đây là “khoa học xã hội”, “khoa học triết học”, “khoa học tâm lý học”… là nói về con người, xã hội loài người, tìm tòi, nghiên cứu, phân tích con người, xã hội làm người làm sao để cai trị dân chúng, kiểu “The Prince” của Machiavelli
Khổng Tử, “Bách Gia Chư Tử”, Mein Kraft, Marx, Engels vậy. Trong đó, có những cách cai trị “Vương đạo”, “bá đạo”, “nhân đạo”… Mình nói về “Khoa học xã hội” đi.”
-“OK” Tiếp đi.” Tôi nghe.
-“Khoa học xã hội là khoa học nghiên cứu về nhân học, dân tộc học, kinh tế xã hội, văn hóa, giáo dục… tìm hiểu về con người, xã hội, kinh tế, chính trị để có các chính trị, phương pháp cai trị dân chúng như thế nào để chế độ cai trị vững chắc, dài lâu hay vĩnh viễn. Đó là những điểm căn bản trong chủ nghĩa Mác trong việc huấn luyện, giáo dục, rèn luyện cán bộ để xây dựng, củng cố chế độ Cộng Sản sau khi nắm được chính quyền. Nhờ tính khoa học nên những tìm hiểu nghiên cứu của họ thấu đáo, sâu sắc, chính xác, từ đó chính sách cai trị của họ chặt chẽ hơn, khắc nghiệt hơn, triệt để hơn. Trong xã hội cũ, khi nông dân đứng lên chống lại giới cai trị dễ dàng hơn bây giờ là vì vậy. Môt ví dụ điển hình là Tân Pháp của Vương An Thạch đời nhà Tống bên Tầu. Tân Pháp có mấy phép căn bản là: – Thanh miêu: Cho dân vay tiền làm mùa, sau khi thu hoạch, bán lúa xong rồi thì trả tiền lại cho vua, cả vốn lẫn lời. Miễn dịch: Cho đóng tiền để khỏi đi xâu dịch. Vua lấy tiền ấy mà thuê người khác. Thị dịch: Hàng hóa không bán được thì vua mua, vua cho vay tiền, sau trả lại cả vốn lẫn lời. Bảo giáp: là phép bắt lính, kiểm soát dân để luyện tập võ nghẹ, bắt lính, mười nhà một “bảo”, năm tram nhà là một “đô bảo”. Bảo mã: Vua giao ngựa cho dân nuôi, chết phải bồi thường.”
-“Tân pháp chưa có gì khắt khe, ngoài việc bắt lính. Thanh miêu thì cũng như “Nông Tín Cuộc” hay “Ngân Hàng Nông Nghiệp” thôi. So với “Cải Cách Ruộng Đất” của Cộng Sản Việt Nam thì xa rời một trời một vực, thực chất là cướp đất của nông dân, biến nông dân thành nông nô – nông nô chớ không được là tá điền – của “Đảng và Nhà Nước”. “Đảng và Nhà Nước” đóng vai trò lãnh chúa thời Trung Cổ, còn tệ hơn địa chủ. Thực chất là “lịch sử đi ngược”, từ “Phong Kiến” lùi lại thời “Trung Cổ”. Nói cho đúng, chủ nghĩa Mác khoa học ở chỗ tuyên truyền, “bóc lột một cách khoa học, đẩy lùi lịch sử mà mọi người tưởng rằng xã hội đang tiến bộ.”
-“Nói như bạn thì chế độ nầy sụp đổ hay thay đổi là điều khó xảy ra.” Tôi nói.
-“Tôi không tuyệt vọng như “ông”. “Ông” biết tại sao không? Nói theo “Duy Tâm”, người ta gọi là “hồn thiêng sông núi”, là “anh linh Tổ Tiên, Dân Tộc” thì tương lai giống như Đời Hùng Vương Thứ Sáu, cậu bé làng Phù Đổng vươn vai một cái thành người khổng lồ, nhảy lên lưng ngựa, phi tới chỗ giặc Ân, đánh cho một trận, đuổi chúng ra khỏi bờ cõi, cứu nước, cứu vua…
-“Theo tôi biết, “Phù Đổng Thiên Vương” là một trong “Tứ Bất Tử”, tôn giáo nguyên thủy của dân tộc Việt Nam.”
-“Câu chuyện cổ tích có những chi tiết hay lắm, cho chúng ta thấy không phải một mình cậu bé Phù Đổng đánh giặc, mà toàn dân, toàn đất nước. Cậu bé Phù Đổng lớn lên nhờ ăn mười nong cơm, ba vại cà”. Cơm, cà là lương thực của người Việt Nam. Khi cậu bé Phù Đổng tiến tới nơi giặc đóng quân thì tất cả dân chúng theo sau: Trai tráng, ông già bà lão, trẻ con, nông dân, thuyền chài. Nó có nghĩa là toàn dân đánh giặc. Vũ khí ngoài gươm sắt, giáo mác cậu bé Phù Đổng còn nhổ những khóm tre làng. Tre là “vật thể gần gũi và cần thiết” cho đời sống người Việt: Ngoài làm nhà, dụng cụ, còn là vũ khí của tổ tiên. Trước khi về trời, cậu còn dừng lại bên sông Hồng, uống một ngụm nước: Đất, nước của dân tộc.
-“Bạn nghĩ rồi một cậu bé sẽ xuất hiện cứu nước như ngày xưa?” Tôi hỏi.
-“Làm gì có! “Cậu bé Phù Đổng” chỉ là truyền thuyết, truyện cổ tích, hư cấu. Theo tôi nghĩ sẽ có một “thế lực mạnh mẽ”, một “sức mạnh vô hình” nổi lên, có thể từ trong nội bộ Cọng Sản, từ dân chúng trong nước, cũng biết đâu từ hải ngoại về. Điều nầy không nói trước được, không tiên đoán được. Trong lịch sử có những “tình cờ” không sao biết được. Một đại úy Nhảy Dù Kong-Le làm nghiêng ngã tình hình chính trị của Lào. Một chuyện khác, như Obama đắc cử tổng thống, ít ai ngờ. Còn trẻ, gốc da đen, mới làm thượng nghị sĩ chưa hết một nhiệm kỳ, nhưng vượt qua Hillary. Sức mạnh Obama có được là gì, “ông” biết không? Giới trẻ đó. Qua internet, Obama vận động, sinh viên, thanh niên ủng hộ. Chỉ một việc quyên tiền vận động thôi, đã thấy lạ mà hay. Mỗi người góp cho Obama hai chục đô thôi, anh ta có bạc triệu. Sức mạnh thanh niên, sinh viên là sức mạnh mới, sôi nổi, mãnh liệt, đâu ai ngờ! Đó cũng là “Sức Mạnh Phù Đổng” của Mỹ đấy. Một chuyện khác: Vừa buồn cười vừa hào hứng mà còn kỳ lạ nữa: Bỗng nhiên các đái phát thanh Tây Đức đưa ra một bản tin mà người Đông Bá Linh hiểu lầm, dân Đông Bá Linh ùn ùn kéo tới các cửa trên bức tường biên giới. Bọn canh giữ bức tường không có lệnh lạc gì hết, bỗng nhiên lần lượt các cửa mở ra vào đêm 22 tháng 12 năm 1989. Dân Đông Bá Linh vượt qua cửa khẩu. Dân Tây Bá Linh đón mừng. Chính phủ Tây Đức, hễ ai qua cửa là tặng một trăm đồng Mark xài chơi. Chỉ trong mấy ngày, gần nửa triệu dân Dân Đông Đức tràn qua Tây Bá Linh. Chính quyền Cộng Sản Đức sụp đổ. Sự việc xảy ra như một giấc mơ.”
“Ông” nghĩ thử coi. Sự kiện bức tường Bá Linh sụp đổ, dân Đông Đức, Đông Âu ùn ùn kéo nhau vượt biên giới, đi biểu tình, không phải là “Sức Mạnh Phù Đổng” hay sao? Khi người dân tới “Đường Cùng”, “tức nước vỡ bờ”, nước tràn về không ai ngăn cản được! Nếu những người cai trị biết tình thế mà thay đổi, đất nước chuyển mình, còn không thì mưa lũ sẽ cuốn trôi. Điều đáng lo ngại là ở đó. Khi vỡ, bờ nước tràn lan, hỗn loạn, lộn xộn xảy ra, an ninh xã hội khó giữ!” Tôi vẫn tin tưởng một phép lạ, không phải từ thần thánh xa xôi đâu cả, không phải từ trên trời rơi xuống mà ngay chính trong dân chúng, trong dân tộc Việt Nam. Một phép lạ từ trong tinh thần của người Việt Nam, không ai tiên đoán được. Hồn thiêng sông núi, đất nước oai linh là từ nơi đó.
hoànglonghải