Nguyễn Hữu Nghĩa – Tóm-tắt và nhận-định về giai-đoạn 1954-1975, Cuộc chiến Việt-nam

(bài phát-biểu của Nguyễn Hữu Nghĩa tại Genève, 2.4.2004)
Kính thưa quí vị,
Cách đây đúng 50 năm, cũng vào tháng 4 này, cũng tại thành-phố này, quốc-gia này, các nước Anh, Pháp, Mỹ, Nga, Trung Cộng đã cùng với Việt-minh, bắt đầu nhóm họp để bàn về việc đình-chỉ chiến-sự tại Lào, Cao-miên và Việt-nam. Cuối cùng, vào nửa đêm 20.7.1954, 3 hiệp-định Genève đã được ký-kết giữa Pháp với Lào, Pháp với Cao-miên và Pháp với Việt-minh. Riêng bản Hiệp-định Pháp ký với Việt-minh, đã chia đôi lãnh-thổ Việt-nam, lấy vĩ-tuyến 17 và sông Bến Hải làm lằn ranh phân-cách: miền Bắc do Hồ Chí Minh và đảng CSVN cai-trị; miền Nam được coi là phần đất tự-do, do Pháp bảo-hộ, và sau đó trở thành một quốc-gia độc-lập.
Tất cả mọi người trong chúng ta, và một phần rất lớn của nhân-loại đều biết: mỗi khi Cộng-sản hứa, chính là lúc họ chuẩn-bị nuốt lời.
Cộng sản không bao giờ thò bút ra ký bất cứ một hiệp định nào nếu họ chưa chuẩn bị xong kế hoạch để vi phạm chính hiệp định đó.
Việc ký hiệp-định đình-chiến 1954, đối với Cộng-sản, chỉ là một mưu-lược để mua thời-gian, củng-cố lực-lượng để chuẩn-bị tái-chiến.
Năm 1959, 5 năm sau khi ký Hiệp-định Genève, và sau khi đã chấp-nhận phần chia-chác từ vĩ-tuyến 17 trở ra Bắc, CS Bắc Việt vẫn công-khai tái-xác-định ngay trong lời mở đầu của bản Hiến-pháp nước Việt-Nam Dân-Chủ Cộng-Hoà rằng (nguyên-văn):
“Nước Việt-nam ta là một nước thống-nhất từ Lạng-sơn đến Cà-mau.”
Nói như vậy, tức là đã trắng-trợn phủ-nhận Hiệp-định, và không cần che-giấu ý-định tấn-công qua sông Bến Hải.
Năm 1960, sau khi đã lấy lại sức cho cái gọi là Quân-đội nhân-dân vốn đã gần như bại-liệt sau chiến-dịch Điện Biên Phủ, Hồ Chí Minh đã phái cán-bộ Trung-ương Đảng vào thành-lập và kiểm-soát Mặt Trận Giải-Phóng Miền Nam.
Cho tới năm 1965, CS Bắc Việt đã đưa vào miền Nam hơn 1 triệu quân chính-qui, với vũ-khí tối-tân do Liên-sô và Trung Cộng cung-cấp. Hỏa lực và đặc-tính tác-chiến của vũ khí của CS Bắc Việt cao hơn vũ-khí của QL/VNCH, hoặc cổ-điển hoặc còn trong vòng thí-nghiệm.
Dù hoả lực hùng hậu, CS Bắc Việt và lực-lượng tay sai là MTGPMN vẫn không đủ sức chiếm được miền Nam.
CS Bắc Việt có thể đánh bại quân đội Mỹ nhưng không thể đánh bại QL/VNCH. Bằng chứng là cho đến ngày 27.1.1973, Mỹ đầu hàng VC bằng Hiệp-định Paris, bắt đầu triệt-thoái thì QL/VNCH vẫn tiếp-tục làm chủ chiến-trường. Quân-lực và chính-phủVNCH vẫn can-trường chiến-đấu dưới lằn đạn của Bắc Việt và khối CS quốc-tế.
Chẵng những thế, miền Nam đồng-thời còn phải bảo-vệ chính nghĩa cho cuộc chiến-đấu của dân-tộc, vì mỗi khi Mỹ bầu-cử tổng-thống, hai phe Cộng hoà và Dân chủ lại mang cuộc chiến Việt-nam ra làm vật hi-sinh để kiếm phiếu hay giữ phiếu. Chính Henry Kissinger trong cuốn hồi-ký của ông ta cũng đã hé mở cho thấy rằng năm 1972, Mỹ đã muốn lật-đổ chính-phủ VNCH vì VNCH nhất-quyết không nhượng-bộ CS Bắc Việt để Mỹ có thể thảnh thơi rút chân ra khỏi chiến-trường Việt-nam.
Mỹ có thể làm sụp-đổ nền đệ I Cộng-hoà, nhưng không làm tê-liệt được chính-phủ đệ II Cộng-hoà, vì người Việt đã rút kinh-nghiệm, đồng lòng chiến-đấu. Tuy-nhiên, người lính miền Nam không thể nổ súng, nếu khẩu súng ấy không có đạn. Mỹ đã tước quyền bảo-hộ của Pháp tại miền Nam Việt-nam, rồi lại trói tay miền Nam để giao nộp cho CS Bắc Việt để đổi lấy một lối thoát an-toàn và vớt-vát chút danh-dự.
Khi Mỹ muốn rút lui khỏi Việt Nam, chính-phủ Úc-đại-lợi đã ngỏ ý muốn đứng ra thay-thế để chặn đứng CS khỏi lan-tràn xuống miền Nam, gián-tiếp đe-doạ quốc-gia họ, qua sự kết-hợp với Cộng-sản Nam-dương. Mỹ cương-quyết từ-chối.
Để trấn-an miền Nam, từ ngày 31.12.1971 đến ngày 23.3.1975, TT Nixon đã gửi cho TT Nguyễn Văn Thiệu 31 bức thư; TT Ford cũng gửi cho TT Thiệu 4 bức thư. Tất cả đều cam-kết sẽ “trả đũa mạnh” nếu Hà-nội vi-phạm Hiệp-định Paris. Tất cả 35 bức thư này chỉ có giá-trị như chứng-cớ của một sự lừa-dối trơ-tráo và thô-bỉ.
Cuộc chiến-đấu của quân-dân miền Nam tự-do đã chuyển sang giai-đoạn mới từ ngày 30 tháng 4 năm 1975. CS Bắc Việt đã chà-đạp một lúc cả hai hiệp-định Genève và Paris để tràn-ngập phía Nam vĩ-tuyến 17. Không một quốc-gia nào trong số các nước bảo-trợ hai hiệp-định nói trên lên tiếng phản-đối.
Trong toàn-bộ Hiệp-định Paris, chỉ có 1 chương (chương 6) và 1 điều (điều 22) được các nước bảo-trợ làm áp-lực để CSVN thi-hành nghiêm-chỉnh, đó lại là chương và điều-khoản nói về Lào và Cao-miên. Điều-khoản này tái xác-định giá-trị của Hiệp-định Genève, buộc các nước ngoài phải rút quân khỏi Lào và Cao-miên và việc nội-bộ của hai nước này sẽ được nhân-dân của mỗi nước tự giải-quyết.
Không ai đả động đến mấy mươi triệu sinh linh Việt Nam, với mấy triệu xác chết của cả hai miền và quân đội đồng minh mười mấy nước của cả hai bên.
Kính thưa quí vị,
Giai-đoạn 1954-1975 là giai-đoạn chiến-đấu cam-go nhất của dân-tộc Việt-nam để chống lại hiểm-hoạ Cộng-sản và đồng-thời còn phải chống lại sự can-thiệp mù-quáng, ích-kỷ và thô-bạo của một nước lớn, là Hoa-kỳ.
Dân-tộc Việt-nam đã hoàn-toàn trưởng-thành trong chiến-đấu. Chúng ta đã học được trọn-vẹn những bài học cay-đắng và giá-trị về bạn và thù. Vấn-đề của chúng ta hiện nay là áp-dụng như thế nào những kinh-nghiệm máu xương ấy, để mang lại phúc-lợi cho toàn dân và các thế-hệ tương-lai./.
ReplyForward |